Tội cướp tài sản theo trong Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có nhiều điểm mới sửa đổi bổ sung 2017 giảm nhẹ khung hình phạt và đã bỏ hành phạt tử hình đối với tội danh này. Theo quy định tại Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội cướp tài sản thì cần phải có các yếu tố sau đây thì mới được coi là tội cướp tài sản:

I. CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH TỘI PHẠM

1. Chủ thể của tội phạm
Người phạm tội cướp tài sản phải là người đủ từ 14 tuổi trở lên và khi thực hiện hành vi phạm tội không mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Bởi vì, tội cướp tài sản quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự là tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được thực hiện do lỗi cố ý và theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì có liệt kê đây là tội danh mà người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự.

2. Khách thể mà tội phạm hướng tới
Đối với tội cướp tài sản, khách thể của tội phạm bao gồm cả quan hệ về tài sản và quan hệ nhân thân, hay nói cách khác, tội cướp tài sản là tội phạm cùng một lúc xâm phạm hai khách thể, nhưng khách thể bị xâm phạm trước là quan hệ nhân thân, thông qua việc xâm phạm đến nhân thân mà người phạm tội xâm phạm đến quan hệ tài sản, nếu không xâm phạm đến quan hệ nhân thân thì người phạm tội cướp tài sản không thể xâm phạm đến quan hệ tài sản được.

3. Mặt khách quan của tội phạm
- Hành vi phạm tội
+ Hành vi dùng vũ lực tức là người phạm tội đã thực hiện, tác động vào cơ thể của nạn nhân như: Đấm, đá, bóp cổ, trói, bắn, đâm, chém, … làm cho nạn nhân bị thương tích, bị tổn hại đến sức khoẻ hoặc bị chết, …
+ Hành vi đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc tức là người phạm tội dùng lời nói hoặc hành động nhằm đe doạ người bị hại nếu không đưa tài sản thì vũ lực sẽ được thực hiện ngay như: dí dao vào cổ, dí súng vào bụng yêu cầu người bị hại giao ngay tài sản nếu không sẽ bị đâm, bị bắn ngay lập tức.
+ Đe doạ dùng vũ lực là chưa dùng vũ lực, nếu người phạm tội vừa đe doạ, vừa dùng vũ lực, mặc dù việc dùng vũ lực không mạnh mẽ bằng vũ lực mà người phạm tội đe doạ người bị hại, nhưng vẫn bị coi là đã dùng vũ lực.
+ Hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được tức là hành vi không phải là dùng vũ lực, cũng không phải là đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc nhưng lại làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được.
- Hậu quả và mối quan hệ nhân quả
Đối với tội cướp tài sản, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành. Hậu quả của tội phạm chỉ là dấu hiệu định khung hình phạt hoặc chỉ là tình tiết để xem xét khi quyết định hình phạt.
4. Mặt chủ quan của tội phạm
Người phạm tội không chỉ cố ý thực hiện hành vi phạm tội mà còn phải có mục đích chiếm đoạt tài sản thì mới là tội cướp tài sản. Hầu hết những trường hợp khi tấn công người phạm tội không có ý định chiếm đoạt tài sản mà vì động cơ mục đích khác như để trả thù, nhưng sau khi đã thực hiện hành vi tấn công, người bị tấn công bỏ chạy để lại tài sản, người có hành vi tấn công lấy tài sản đó đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản.
>>>Xem thêm: Làm sao để tìm được luật sư giỏi tại Hà Nội

II. QUY ĐỊNH VỀ MỨC HÌNH PHẠT
- Theo quy định tại khoản 1 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định về tội cướp tài sản thì phạm tội theo cấu thành cơ bản, tức là thực hiện 1 trong 3 hành vi được mô tả trong cấu thành cơ bản của tội phạm thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm tức là:“Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản”
- Nếu phạm tội trong các trường hợp quy định tại khoản 2 điều 168 BLHS thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Đó là các trường hợp:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;
d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
đ) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
e) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;
g) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
h) Tái phạm nguy hiểm.
- Theo quy định tại khoản 3 điều 168 BLHS thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. Đây là các trường hợp tăng giá trị tài sản chiếm đoạt so với điểm đ khoản 2, tăng tỉ lệ thương tích so với điểm c khoản 1 và bổ sung thêm trường hợp lợi dụng thiên tai, dịch bệnh để cướp tài sản.
- Phạm tội theo khoản 4 điều 168 thì bị phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Đây là các trường hợp nặng hơn so với điểm a và điểm b khoản 3. Bổ sung thêm trường hợp làm chết người và lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp để cướp tài sản.
 Như vậy, BLHS 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định mức hình phạt nhẹ hơn so với BLHS 1999. Tội cướp tài sản trong BLHS 1999 quy định mức hình phạt cao nhất là tử hình còn BLHS 2015 thì hình phạt đã được giảm từ tử hình xuống cao nhất còn là chung thân, đây cũng là sự thể hiện tiến bộ trong tư duy lập pháp và hướng tới giá trị nhân đạo, giảm dần án tử hình.

Nếu bạn cần được sự hỗ trợ của Luật Sư TGS về những quy định mới của pháp luật hình sự, bạn có thể gọi đến tổng đài tư vấn pháp luật hình sự miễn phí 1900.8698