Vì mâu thuẫn Hợp đồng tín dụng (gọi tắc là HĐTD) ngân hàng cũng là 1 loại mâu thuẫn hợp đồng nói chung, bởi vậy có đầy đủ những đặc điểm tài chính có của 1 mâu thuẫn hợp đồng. Tuy nhiên, với bản chất đặc thù của HĐTD, tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng mang một vài đặc trưng riêng biệt để có thể phân biệt với các loại mâu thuẫn hợp đồng khác. Có thể khái quát đặc điểm của mâu thuẫn hợp đồng tín dụng bởi những ý sau:



Thứ nhất, giá trị của tranh chấp HĐTD ngân hàng thường có giá trị lớn hay thậm chí là khá lớn.

Lúc kí kết HĐTD thì thường là do bên đi vay có nhu cầu về tài chính mà chẳng thể tự mình xoay xở được. Nhu cầu ấy thường là để bổ sung nguồn vốn buôn bán đối với tổ chức hay vay để phát triển kinh tế đối với cá nhân, hộ gia đình. Bởi thế, số tiền này chẳng phải là nhỏ và đơn giản vay được từ những tổ chức, cá nhân ngoài xã hội mà chẳng phải là ngân hàng.

Về phía bên cho vay là ngân hàng, bên cạnh vai trò là chủ thể cung ứng tài chính cho sàn kinh tế thì TCTD còn đóng vai trò là người đi vay của các chủ thể khác để cho vay lại. Để đạt được lợi ích nhuận cao thì những TCTD thường kí kết những HĐTD có giá trị lớn dựa trên định giá tài sản bảo đảm tại thời điểm cho vay. Do bên vay vốn dùng khoản vay này đa số để đầu tư cho sinh hoạt chế tạo buôn bán nên nếu như bên vay không có tuân thủ những cam kết trong hợp đồng, không trả nợ cho những TCTD sẽ khiến cho tác động xấu tới sinh hoạt của TCTD đấy. Thực tế không có hiếm các trường hợp các TCTD lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả do “nợ xấu’. Một khi khách hàng vay không thể thanh toán được nợ, tranh chấp xảy ra thì TCTD sẽ là chủ thể bị thiệt hại lớn vì vốn bị ứ đọng, phải thực hiện các biện pháp hòa giải, mục đích lợi nhuận ban đầu không có còn hay bị gián đoạn. Đặc biệt, nếu tranh chấp HĐTD phải khởi kiện tại Tòa án thì càng gây khó khăn cho TCTD khi muốn thu hồi vốn. Bởi lúc đã bị khởi kiện ở Tòa án thì thường là người đi vay không có còn có khả năng trả nợ cho TCTD. Mặt khác, khi tranh chấp HĐTD xảy ra thì TCTD sẽ mất lòng tin với khách hàng vay nguồn vốn, những HĐTD tiếp theo sẽ khó mà thực hiện, kể cả khi bên đi vay chứng minh lại được khả năng vốn của mình. Bởi vậy, có thể nói mâu thuẫn HĐTD là loại mâu thuẫn có mức giá trị thiệt hại lớn, không chỉ tác động đến bên cho vay mà còn cả đối với bên đi vay. Thậm chí nếu mâu thuẫn xảy ra khá nhiều thì tác động đó không chỉ ảnh hưởng tới một TCTD mà có thể ảnh hưởng dây chuyền đến các TCTD khác trong nền kinh tế.



Thứ hai, mâu thuẫn HĐTD ngân hàng được giải quyết dựa trên nguyên tắc tự do thỏa thuận trong khuôn khổ luật pháp của các bên tham gia tranh chấp.

Pháp luật Việt Nam tôn trọng sự thỏa thuận của các bên, cụ thể, Bộ Luật dân sự 2005 ghi nhận :“cam kết, thỏa thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc đối với các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng”. HĐTD về bản chất là hợp đồng dân sự mà quan hệ dân sự là quan hệ mang tính thỏa thuận, tự định đoạt giữa hai bên. Vì thế, kể cả đối với việc khắc phục tranh chấp phát sinh từ HĐTD thì 2 bên cũng có quyền thỏa thuận để đạt được hiệu quả tối ưu nhất trong trường hợp có mâu thuẫn xảy ra. Việc tôn trọng quyền định đoạt này có ý nghĩa rất quan trọng vì quan hệ dân sự giữa các bên mang tính bình đẳng, không phải là mối quan hệ mệnh lệnh - phục tùng như những quan hệ hành chính nhà nước khác. Khi các bên tham gia tranh chấp có thể thỏa thuận được với nhau thì việc hòa giải mâu thuẫn sẽ diễn ra mau chóng, thuận lợi ích hơn, cùng lúc hạn chế được thiệt hại về thời gian, tiền bạc, công sức của 2 bên. Về phía các cơ quan tài phán, thi hành án thì việc thỏa thuận này cũng có ý nghĩa trong việc giảm xuống nhẹ khối lượng, áp lực công việc trong điều kiện những tranh chấp ngày càng xảy ra nhiều và phức tạp như ngày nay.

Đặc biệt, vấn đề thỏa thuận về phương thức giải quyết tranh chấp đối với những TCTD là ngân hàng hóa nước ngoài, ngân hàng nước ngoài có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết. Bởi những chủ thể này khác với những TCTD trong nước, chịu sự điều chỉnh của cả pháp luật nước ngoài lẫn luật pháp Việt Nam và sự khác nhau trong quy định của luật pháp giữa Việt Nam và nước khác là điều chẳng thể tránh khỏi. Bởi thế, việc cho phép, tôn trọng quyền tự thỏa thuận của hai bên khi có tranh chấp xảy ra sẽ giảm thiểu tối đa các xung đột pháp luật có thể xảy ra trong công đoạn hòa giải những mâu thuẫn. Tuy là vậy nhưng, nguyên tắc đối với các thỏa thuận này là phải phù hợp với những quy định của luật pháp Việt Nam.

Nguyên tắc tự do thỏa thuận lúc hòa giải mâu thuẫn giữa 2 bên cũng được Bộ Luật tố tụng dân sự thể hiện ở chế định hòa giải. Theo đó, hòa giải là nghĩa vụ của cơ quan tài phán khi có tranh chấp xảy ra và khi đấy các bên có thể thỏa thuận về việc giải quyết vụ án. Ngay cả trước lúc diễn ra hay tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm các bên cũng vẫn có quyền thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp miễn sao thỏa thuận đấy phù hợp với các quy định của pháp luật.

Thứ ba, mâu thuẫn HĐTD luôn luôn có sự tham gia của 1 bên là TCTD và phần lớn những mâu thuẫn HĐTD thì nguyên đơn là tổ chức tín dụng cho vay, bị đơn là bên đi vay.



Với đặc thù của sinh hoạt tín dụng là sự cung ứng vốn đến các tổ chức, cá nhân có nhu cầu về tài chính trên cơ sở huy động của những tổ chức, cá nhân có thừa nguồn vốn trong xã hội nên TCTD luôn đóng vai trò trung gian trong mối quan hệ này. Sự tham dự của TCTD là một dấu hiệu đặc trưng nhằm phân biệt giữa tranh chấp HĐTD và mâu thuẫn hợp đồng vay tài sản thông thường giữa những tổ chức, cá nhân khác mà không phải là TCTD.

Đồng thời, về mặt lý thuyết, lúc tham dự ký kết HĐTD, những TCTD và khách hàng có địa vị ngang bằng nhau tham dự thỏa thuận. Nhưng với tư cách là chủ thể có nguồn vốn dồi dào, việc áp đặt các điều kiện cho vay đối với người dùng là điều không hiếm xảy ra. Hơn nữa, khi tham gia kí phối hợp đồng thì hợp đồng thường xuyên do bên cho vay là những TCTD soạn thảo với đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn về mặt pháp lý nhất quyết. Trong lúc đó, chủ thể đi vay là người dùng thường là những tổ chức, cá nhân, trình độ chuyên môn về mặt pháp lý của họ còn rất thấp và rất nhiều lúc không được chú trọng đúng mức. Và như vậy là hợp đồng được kí kết với các điều khoản chặt chẽ nhằm đảm bảo cho quyền lợi của TCTD khi bên vay không trả nợ hoặc trả không có đúng bổn phận. Do vậy, khi tranh chấp xảy ra thì TCTD luôn nắm đằng chuôi với các điều khoản được ghi nhận một cách thức chặt chẽ, rõ ràng trong hợp đồng được sự đồng thuận của cả hai bên. Bởi thế, nếu như có mâu thuẫn xảy ra thì là do bên đi vay vi phạm, chứ ít khi TCTD lại vi phạm chính các điều khoản do chính mình soạn thảo.

Mặt khác, trong mối quan hệ HĐTD, những trách nhiệm chính của bên đi vay thường xuyên nảy sinh sau thời điểm giải ngân. Trong lúc đấy, tại thời điểm hoàn tất việc giải ngân cho người tiêu dùng thì TCTD đã hoàn tất các bổn phận của mình. Các bổn phận khác của bên cho vay như bảo mật thông tin, lưu trữ thủ tục tín dụng, nghĩa vụ thông báo, bảo quản tài sản bảo đảm, giải chấp tài sản bảo đảm... Là ít quan trọng và là bổn phận phát sinh từ quyền của bên vay. Vì lý vì vậy nên nếu như có mâu thuẫn xảy ra thì thường là do bên vay vi phạm trách nhiệm của mình, vô cùng hiếm gặp trường hợp bên đi vay khởi kiện TCTD.

Thứ tư, đa phần những mâu thuẫn liên quan tới HĐTD ngân hàng hóa đó là những tranh chấp liên quan tới việc thực hiện trách nhiệm hoàn trả nguồn vốn, lãi của bên vay cho TCTD, về mức lãi suất vay, về vấn đề bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong HĐTD.



Có khá nhiều loại mâu thuẫn nảy sinh từ HĐTD như: mâu thuẫn về chủ thể xác lập, thực hiện HĐTD, mâu thuẫn liên quan đến bảo lãnh vay nguồn vốn, mâu thuẫn liên quan đến mục đích dùng tài chính vay... Tuy nhiên, mâu thuẫn xảy ra nhiều nhất là tranh chấp có liên quan tới trách nhiệm hoàn trả vốn và lãi, về mức lãi suất vay, về vấn đề đảm bảo. Sở dĩ như vậy là bằng vì các trách nhiệm này chính là các nghĩa vụ chính nhất, đóng vai trò nòng cốt trong giai đoạn thực hiện HĐTD của hai bên và việc thực hiện này có tác động trực tiếp tới quyền lợi của TCTD. Những mâu thuẫn khác cũng có tác động tới các TCTD nhưng chẳng phải là căn bản nên ít xảy ra hơn so với tranh chấp về nghĩa vụ hoàn trả nguồn vốn và lãi hoặc mâu thuẫn về lãi suất, về đảm bảo thực hiện trách nhiệm.

Thứ năm, mâu thuẫn HĐTD ngân hàng thường là tiền đề làm nảy sinh và gắn liền với 1 quan hệ hợp đồng khác: hợp đồng bảo đảm chi phí vay thông qua loại hình cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ ba

Các TCTD lúc tham dự vào HĐTD đều có mục đích lợi ích nhuận từ việc cho vay đó vì bản chất của TCTD là công ty buôn bán tiền tệ. Để giảm thiểu rủi ro trong trường hợp bên vay không có trả được nợ, thông thường TCTD chỉ đồng ý cho bên đi vay được vay nguồn vốn khi họ có cầm cố, thế chấp bằng tài sản hay có bảo lãnh của bên thứ ba. Những biện pháp đảm bảo này đóng vai trò là phương pháp dự phòng của TCTD khi rủi ro xảy ra. Khi ấy, để bảo đảm cho bổn phận được bảo đảm trong HĐTD thì 2 bên kí liên kết đồng đảm bảo cho khoản vay. Tùy trường hợp mà đó có thể là hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp hoặc là dưới hình thức chứng thư bảo lãnh của bên thứ ba. Những điều khoản về quyền và nghĩa vụ trong những hợp đồng đảm bảo cho trách nhiệm vay vốn là để đảm bảo cho việc vay vốn, xuất phát từ hợp đồng tín dụng đã được kí kết và mục đích cuối cùng là đảm bảo cho việc trả nợ của bên đi vay.

Như vậy, không trường hợp nào, hợp đồng bảo đảm lại tách rời ra khỏi HĐTD với tư cách là một hợp đồng độc lập mà giữa chúng luôn luôn có mối quan hệ mật thiết, gắn bó với nhau. Có thể ví mối quan hệ này như là mối quan hệ giữa hợp đồng chính và hợp đồng phụ. Sự vô hiệu loại hợp đồng này có tác động đến loại hợp đồng kia tùy trường hợp. “Trong trường hợp hợp đồng có bổn phận được bảo đảm vô hiệu mà hai bên chưa thực hiện hợp đồng thì giao dịch bảo đảm chấm dứt, nếu như đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm thì giao dịch bảo đảm không kết thúc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Ngược lại, “giao dịch bảo đảm vô hiệu không làm chấm dứt hợp đồng có trách nhiệm được bảo đảm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Như vậy, có thể khẳng định rằng tranh chấp HĐTD, với tư cách là hợp đồng chính, luôn gắn liền và làm cơ sở phát sinh tranh chấp hợp đồng đảm bảo - hợp đồng phụ trong quan hệ tín dụng giữa các bên.

Thứ sáu, mâu thuẫn HĐTD phát sinh từ sự xung đột về lợi giữa hai bên tham gia mâu thuẫn.

Vì tranh chấp HĐTD cũng là 1 loại tranh chấp hợp đồng nên phải xuất phát từ xung đột lợi ích của các bên trong hợp đồng. Mặc dù vậy trong quan hệ dân sự, luật pháp hiện hành quy định một số cơ quan đoàn thể có thể khởi kiện để đảm bảo quyền lợi cho tổ chức, cá nhân khác mà chẳng phải là lợi ích của chính cơ quan, đoàn thể đấy. Tuy vậy, đối với tranh chấp phát sinh từ HĐTD thì chỉ có chính các bên hay người đại diện hợp pháp của họ mới có quyền khởi kiện để che chở quyền và lợi hợp pháp của bên đi vay hay TCTD. Không có trường hợp nào mà mâu thuẫn HĐTD nảy sinh do tổ chức, cá nhân khác khởi kiện để che chở quyền lợi cho các bên tham gia HĐTD. Như vậy, mâu thuẫn phát sinh từ HĐTD chỉ phát sinh lúc các bên khởi kiện đề nghị bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quan hệ tín dụng, hay nói cách khác, mâu thuẫn HĐTD thường gắn liền với lợi ích của hai bên mâu thuẫn.

---------------------------

CÔNG TY LUẬT VẠN TÍN

Địa chỉ: Số 7, đường số 14, Khu đô thị mới Him Lam, Phường Tân Hưng, Quận 7, TP Hồ Chí Minh.

Hotline: 1900 6558

Email: info@luatvantin.com.vn

MST: 0310701291